Việt Nam gia nhập các điều ước quốc tế quan trọng về quyền con người ngay vào đầu những năm 80 của Thế kỷ XX, trong bối cảnh đất nước vừa ra khỏi chiến tranh, gặp nhiều khó khăn trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa. Chính vì vậy, việc gia nhập các Công ước quốc tế về quyền con người của Việt Nam là một minh chứng rõ nét về nỗ lực của Nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ, thúc đẩy và tôn trọng các quyền con người theo các chuẩn mực quốc tế.
Đến nay, Việt Nam đã tham gia hầu hết các Công ước quốc tế cơ bản về quyền con người, cụ thể: Công ước về các Quyền Dân sự và Chính trị 1966 (ICCPR), gia nhập ngày 24/9/1982; Công ước về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa 1966, gia nhập ngày 24/9/1982; Công ước về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ 1979, ký kết ngày 29/7/1980, phê chuẩn ngày 17/02/1982; Công ước về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc 1969, gia nhập ngày 09/6/1982; Công ước về Quyền Trẻ em 1989 , ký kết ngày 26/1/1990, phê chuẩn ngày 28/2/1990 và hai Nghị định thư bổ sung về trẻ em trong xung đột vũ trang (ký kết ngày 08/9/2000, phê chuẩn ngày 20/12/2001) và chống sử dụng trẻ em trong các hoạt động mại dâm và tranh ảnh khiêu dâm (ký kết ngày 08/9/2000, phê chuẩn ngày 20/12/2001); Công ước về Quyền của Người khuyết tật 2006, ký ngày 22/11/2007 và phê chuẩn ngày 5/2/2015; Công ước Chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người, ký ngày 07/11/2013 và phê chuẩn ngày 5/2/2015.
Bên cạnh các điều ước quốc tế về quyền con người cơ bản nêu trên, Việt Nam đã tham gia nhiều công ước quốc tế khác liên quan đến việc bảo vệ quyền con người và luật nhân đạo quốc tế, như: Nghị định thư bổ sung Công ước Geneva về bảo hộ nạn nhân trong các cuộc xung đột quốc tế (gia nhập ngày 28/8/1981); Công ước Quốc tế về Ngăn ngừa và Trừng trị Tội ác Diệt chủng 1948 (gia nhập ngày 09/6/1981); Công ước Quốc tế về Ngăn chặn và Trừng trị Tội ác Apartheid 1973 (gia nhập ngày 09/6/1981); Công ước Quốc tế về Không áp dụng những hạn chế luật pháp đối với các Tội phạm Chiến tranh và Tội ác chống Nhân loại 1968 (gia nhập ngày 04/6/1983); Công ước về Chống Tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia 2000 (ký kết ngày 13/12/2000, phê chuẩn ngày 08/6/2012).
Sau khi trở thành thành viên Tổ chức Lao động Quốc tế năm 1994, Việt Nam đã tham gia 20 công ước về quyền lao động như: Công ước số 5 về tuổi tối thiểu của trẻ em được tham gia lao động công nghiệp; Công ước số 6 về làm việc ban đêm của trẻ em trong công nghiệp; Công ước số 14 về quy định nghỉ hàng tuần cho lao động công nghiệp; Công ước số 45 về sử dụng lao động nữ trong hầm mỏ; Công ước số 81 về thanh tra lao động trong công nghiệp và thương mại; Công ước số 100 về trả công bình đẳng giữa lao động nam và nữ; Công ước số 111 về không phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp; Công ước 123 về tuổi tối thiểu được làm những công việc trong hầm mỏ; Công ước số 124 về kiểm tra sức khoẻ cho thiếu niên làm việc trong hầm mỏ; Công ước số 155 về an toàn lao động, vệ sinh lao động và môi trường làm việc; Công ước số 182 về nghiên cứu và hành động ngay lập tức để xoá bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất; Công ước số 29 về lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc; Công ước số 122 về Chính sách việc làm; Công ước số 186 về Lao động Hàng hải.v.v...
Hiện Việt Nam đang xem xét khả năng gia nhập Công ước về Người mất tích cưỡng bức, Công ước về Quyền của Người lao động di cư và thành viên gia đình họ, Công ước về Quy chế của người tị nạn, Công ước về Người không có quốc tịch.
Việt Nam đã và đang thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ đối với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia, trong đó có nghĩa vụ nội luật hóa, xây dựng cơ chế pháp luật quốc gia phù hợp với các quy định của công ước; thực thi các biện pháp lập pháp, hành pháp và tư pháp để bảo đảm quyền con người; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nội dung công ước; soạn thảo và đệ trình báo cáo quốc gia định kỳ về việc thực hiện công ước; hợp tác quốc tế trong việc thực hiện công ước; xây dựng các chương trình quốc gia để thực hiện những cam kết quốc tế về quyền con người.
Tính từ thời điểm Việt Nam bắt đầu gia nhập các công ước quốc tế về quyền con người, đã có khoảng 13.000 văn bản luật và dưới luật được rà soát, ban hành và sửa đổi, trong đó các quyền con người cơ bản được quy định một cách cụ thể và toàn diện hơn; hàng loạt những nguyên tắc tiến bộ của luật pháp quốc tế đã được thể hiện trong các đạo luật quốc gia. Các quyền dân sự, chính trị được nêu trong các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên đã được thể hiện xuyên suốt, thống nhất trong Hiến pháp và được thể hiện tại nhiều văn bản luật quan trọng.
Nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử là nền tảng xuyên suốt các văn bản pháp luật Việt Nam, tạo tiền đề cho việc bảo đảm và phát huy các quyền của người dân trên từng lĩnh vực cụ thể. Thời gian tới, Việt Nam tiếp tục rà soát các quy định của pháp luật quốc gia về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội và quyền của các nhóm dễ bị tổn thương.
Đến nay, Việt Nam đã soạn thảo và đệ trình các báo cáo quốc gia về thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người lên các Ủy ban công ước, cụ thể: Việt Nam nộp báo cáo Công ước quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị lần 1 năm 1989, lần 2 năm 2001; báo cáo Công ước quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa lần 1 năm 1992, lần 2-4 năm 2014; báo cáo Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ lần 1 năm 1984, lần 2-4 năm 2001, lần 5-6 năm 2007, lần 7-8 năm 2015; báo cáo Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc lần 1 năm 1983, lần 2-5 năm 1993, lần 6-9 năm 2000, lần 10-14 năm 2012; báo cáo Công ước Quyền trẻ em lần 1 năm 1992, lần 2 năm 2000, lần 3 năm 2009 và lần 4 năm 2012. Hiện Việt Nam đang tích cực soạn thảo báo cáo Công ước về các Quyền Dân sự và Chính trị lần 4-6, báo cáo đầu tiên đối với Công ước về Quyền của Người khuyết tật và Công ước Chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người, dự kiến hoàn thành trong năm 2016.
Việc hoàn thành một khối lượng công việc lớn để nộp hầu hết các báo cáo quốc gia theo đúng quy định thể hiện sự nghiêm túc và cam kết mạnh mẽ của Việt Nam đối với việc bảo đảm tôn trọng và thực hiện các cam kết quốc tế trong lĩnh vực quyền con người. Điều này đã được các Ủy ban theo dõi thực hiện công ước cũng như cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.